Quản lý chất lượng vật
liệu xây dựng theo chuẩn nào?
Bộ Xây dựng ban hành QCVN 16:2019/BXD quy định các yêu cầu về kỹ
thuật và quản lý chất lượng các sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng (VLXD)
được sản xuất trong nước, nhập khẩu, kinh doanh, lưu thông trên thị trường và
sử dụng vào các công trình xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.
Vật liệu xây dựng (VLXD) đóng vai trò chủ yếu trong công tác xây
dựng và là một trong các yếu tố quyết định chất lượng, giá thành, thời gian thi
công công trình. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chất lượng vật
liệu ngày càng được nâng cao.
Xác định vai trò, tầm quan trọng của VLXD đối với công trình xây
dựng tại Luật Xây dựng năm 2014 và các Nghị định liên quan đã điều chỉnh, bổ
sung nhiều nội dung quy định cụ thể về VLXD. Để nâng cao và quản lý chất lượng
các sản phẩm VLXD, ngày 31/12/2019, Bộ Xây dựng ban hành QCVN 16:2019/BXD quy
định các yêu cầu về kỹ thuật và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa VLXD được
sản xuất trong nước, nhập khẩu, kinh doanh, lưu thông trên thị trường và sử
dụng vào các công trình xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo đó, các sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng phải đảm bảo
không gây mất an toàn trong quá trình vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng
hợp lý và đúng mục đích.
Các tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh, sử dụng
sản phẩm phải kê khai đúng chủng loại sản phẩm, hàng hóa VLXD phù hợp với danh
mục sản phẩm quy định tại Bảng 1, Phần 2 của Quy chuẩn này gồm: Xi măng, phụ
gia cho xi măng và bê tông (xi măng poóc lăng, xi măng poóc lăng khác, thạch
cao phospho dùng để sản xuất xi măng, xỉ hạt lò cao, tro bay); Cốt liệu xây
dựng (cốt liệu cho bê tông và vữa, cát nghiền cho bê tông và vữa); Gạch, đá ốp
lát (gạch gốm ốp lát, đá ốp lát tự nhiên, đá ốp lát nhân tạo trên cơ sở chất
kết dính hữu cơ);
Vật liệu xây (gạch đất sét nung, gạch bê tông, sản phẩm bê tông
khí chưng áp, tấm tường rỗng bê tông đúc sẵn theo công nghệ đùn ép); Kính xây
dựng (kính nối; kính phẳng tôi nhiệt; kính dán nhiều lớp và kính dán an toàn
nhiều lớp, kính hộp gắn kín cách nhiệt); Vật liệu xây dựng khác (tấm sóng
amiăng xi măng, Amiăng crizôtin để sản xuất tấm sóng amiăng xi măng, tấm thạch
cao và Panel thạch cao có sợi gia cường, sơn tường dạng nhũ tương, thanh định
hình (profile) nhôm và hợp kim nhôm, thanh định hình (profile) poly (vinyl
clorua) không hóa dẻo (PVC-U) dùng để chế tạo cửa sổ và cửa đi, các loại ống…).
Trường hợp không rõ chủng loại sản phẩm, các tổ chức, cá nhân có
liên quan phải phối hợp với tổ chức chứng nhận hợp quy, tổ chức thử nghiệm để thực
hiện việc định danh chủng loại sản phẩm.
Các sản phẩm, hàng hóa VLXD quy định tại bảng 1, phần 2 của Quy
chuẩn này khi lưu thông trên thị trường phải có Giấy chứng nhận hợp quy, Giấy
công bố hợp quy và/hoặc thông báo tiếp nhận hồ sơ công bố hợp quy của Sở Xây
dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi tổ chức, cá nhân đăng ký kinh
doanh.
Dấu hợp quy được sử dụng trực tiếp trên sản phẩm, trên bao gói
hoặc trên nhãn gắn trên sản phẩm hoặc trong chứng chỉ chất lượng, tài liệu kỹ
thuật của sản phẩm.
QCVN 16:2019/BXD quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật
và yêu cầu quản lý các sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng nêu trong bảng 1,
phần 2, thuộc Nhóm 2 theo quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được
sản xuất trong nước, nhập khẩu, kinh doanh, lưu thông trên thị trường và sử
dụng vào các công trình xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.
Quy chuẩn này không áp dụng cho sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây
dựng nhập khẩu dưới dạng mẫu thử, hàng mẫu, hàng trưng bày triển lãm, hội chợ;
hàng hóa tạm nhập tái xuất không tiêu thụ và sử dụng tại Việt Nam, hàng hóa quá
cảnh.
Đối tượng áp dụng quy chuẩn này là các tổ chức, cá nhân sản
xuất, nhập khẩu, kinh doanh, sử dụng sản phẩm, hàng hóa VLXD.
Các tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận hợp quy thực hiện việc
đánh giá, chứng nhận hợp quy, sản phẩm, hàng hóa VLXD. Các cơ quan quản lý Nhà
nước có liên quan về chất lượng sản phẩm, hàng hóa VLXD.
Trước đó, liên quan đến việc phát triển ngành công nghiệp vật
liệu, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt cho rằng tất cả các quốc gia trên
thế giới đều tập trung nguồn lực để phát triển các vật liệu có giá trị chiến
lược nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và nâng cao giá trị gia tăng cho sản xuất.
Hiện nay, năng lực sản xuất của công nghiệp vật liệu nước ta vẫn
còn nhỏ, năng suất và chất lượng còn nhiều hạn chế do đó phát triển ngành công
nghiệp vật liệu càng là đòi hỏi tất yếu để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, vật liệu gang chế tạo đạt dưới
30%; vật liệu nhôm, vật liệu đồng khoảng 5%; hóa chất cho ngành nhựa, cao su
vẫn phải nhập khẩu đến 70%; nguyên liệu cho ngành dệt may phải nhập khẩu gần
90% vải, 80% sợi...
Trong hoạt động khoa học và công nghệ, công nghệ vật liệu mới
luôn được xác định là hướng nghiên cứu ưu tiên, được thể hiện nhất quán trong
các văn kiện của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như: Nghị quyết số 20-
NQ/TW; Quyết định 418/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn
2011-2020...
Thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ KH&CN luôn chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên
quan đẩy mạnh hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo để góp phần phát triển kinh tế
- xã hội nói chung và lĩnh vực công nghiệp vật liệu nói riêng.
Bộ KH&CN đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục
công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và danh mục sản phẩm công nghệ cao
được khuyến khích phát triển riêng về vật liệu đã có 16/58 công nghệ ưu tiên
(chiếm 27,5% tổng số) và 19/114 nhóm sản phẩm (chiếm 16,6% danh mục sản phẩm
khuyến khích phát triển).
Trong hoạt động nghiên cứu, công nghệ vật liệu mới luôn được xác
định là một trong 4 công nghệ cao được ưu tiên cùng với công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, và công nghệ tự động hoá.
Từ năm 2001 đến nay, Bộ KH&CN đã bố trí riêng 01 Chương
trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia về nghiên cứu, ứng dụng và phát triển
vật liệu mới.
Bên cạnh đó, các nội dung nghiên cứu, ứng dụng vật liệu cũng đã
được ưu tiên lồng ghép trong các Chương trình KH&CN cấp quốc gia khác.
Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
đã hỗ trợ các tổ chức, doanh nghiệp tăng cường tiềm lực, nâng cao trình độ cán
bộ nghiên cứu trong lĩnh vực vật liệu, cập nhật được các công nghệ mới, tiên
tiến của các nước phát triển.
Nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong nước làm chủ công nghệ, chế
tạo thành công nhiều chủng loại vật liệu mới từ nguồn nguyên liệu trong nước
với chất lượng tương đương sản phẩm nhập ngoại, đáp ứng một phần nhu cầu của
các ngành sản xuất và góp phần bảo đảm quốc phòng an ninh.
Bên cạnh việc hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, Bộ KH&CN còn quan tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp vật
liệu thông qua hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng và sở hữu trí tuệ.
Giai đoạn 2011-2020 đã công bố 2.069 TCVN với tỉ lệ hài hòa với
các tiêu chuẩn quốc tế xấp xỉ 72%, 50 QCVN; đã có 6.031 bằng độc quyền sáng
chế; 348 bằng độc quyền giải pháp hữu ích; 20.705 giấy chứng nhận đăng ký nhãn
hiệu trong lĩnh vực vật liệu…
Nguyễn Thị Thu Thủy – Chi cục TCĐLCL
Nguồn: vietq.vn