Chương trình KH&CN phát triển Tây Nguyên: Nhiều đòi hỏi cấp thiết cần sớm giải quyết
Đó là phát biểu của Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Trần Quốc
Khánh tại hội nghị tổng kết chương trình KH&CN phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2015 (chương trình Tây Nguyên 3).
Chuyển giao nhiều công nghệ có tính ứng dụng cao
GS-VS
Châu Văn Minh - Chủ tịch Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Chủ nhiệm chương
trình Tây Nguyên 3 - cho biết giai đoạn 2011-2015, chương trình đã bám sát mục
tiêu đặt ra tại Quyết định 2632/QĐ-BKHCN của Bộ KH&CN. Nhiều phát hiện mới,
kết luận, kiến nghị từ các đề tài không chỉ đóng góp về định hướng, chính sách,
giải pháp cho Nhà nước hay các tỉnh Tây Nguyên mà còn là hướng nghiên cứu, vấn
đề khoa học có giá trị cần tiếp tục đi sâu, giải quyết để phục vụ sự phát triển
của Tây Nguyên và KH&CN Việt Nam.

Giàn nuôi cấy mô/nuôi giống cây sử dụng
đèn chiếu sáng LED do nhóm nghiên cứu đề tài TN3/C01 chế tạo. Ảnh: Việt Quân
Thông
qua các nghiên cứu của chương trình, bức tranh tổng thể về hiện trạng tài
nguyên thiên nhiên (đất, nước, sinh vật, địa chất, khoáng sản…) của Tây Nguyên
được bổ sung, giúp phân tích, đánh giá tiềm năng, tính đặc thù và khả năng khai
thác, quản lý. Cơ sở dữ liệu tổng hợp Tây Nguyên được xây dựng trên hệ thống
atlas điện tử. Hệ thống này sẽ được chuyển giao cho Ban chỉ đạo Tây Nguyên và 5
tỉnh Tây Nguyên cùng khai thác và cập nhật.
Về
lĩnh vực chuyển giao công nghệ, GS Châu Văn Minh cho biết: “Kết quả các nhiệm
vụ về công nghệ sinh học đã chuyển giao thành công công nghệ nuôi cấy phôi bò
sữa cao sản, công nghệ thụ tinh lai tạo heo rừng Tây Nguyên thành thương phẩm.
Kết quả các nhiệm vụ về công nghệ hóa học, vật liệu đã chuyển giao công nghệ
chất giữ ẩm đặc biệt, phân bón nhả chậm nhằm ứng phó với hạn hán, cải tạo thoái
hóa đất, hoang mạc hóa…”.
Cần áp dụng nhanh giải pháp liên kết vùng
Đưa
ra đề xuất trong giai đoạn 2016-2020, ông Nguyễn Đình Kỳ - Phó Chủ nhiệm kiêm
Chánh Văn phòng chương trình Tây Nguyên 3 - cho rằng, trong giai đoạn tiếp theo
cần nhanh chóng đưa một số giải pháp liên kết vùng ở Tây Nguyên vào thực hiện.
Đặc biệt, những kết quả thuộc các nhiệm vụ KH&CN đã nhận được bằng độc
quyền sáng chế, phát minh, giải pháp hữu ích phải được ứng dụng nhanh vào sản
xuất để biến thành sản phẩm hàng hóa.
Theo
ông Kỳ, làm như vậy, những kết quả nghiên cứu riêng lẻ của mỗi đề tài, nhiệm vụ
khoa học thuộc chương trình Tây Nguyên 3 sẽ được hoàn thiện hơn, nâng cao giá
trị tổng hợp, gắn kết liên ngành.
Đồng
tình với đề xuất này, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho rằng trong giai đoạn
2016-2020, Ban chủ nhiệm chương trình cần tăng cường tổ chức các hội nghị, hội
thảo có sự tham gia của lãnh đạo UBND các tỉnh, các sở KH&CN và doanh
nghiệp trong vùng để trao đổi, đề xuất những giải pháp có tính chất liên tỉnh
và liên vùng.
Theo
ông, chương trình cần rà soát lại nhu cầu thực tiễn tại các địa phương, căn cứ
vào khung chương trình đã được phê duyệt để xây dựng kế hoạch phù hợp, hiệu quả
trong giai đoạn tới. Trong đó, cần ưu tiên việc ứng dụng các công nghệ tiên
tiến là thành quả của giai đoạn 2011-2015 vào thực tiễn sản xuất nông, lâm, công
nghiệp và dịch vụ Tây Nguyên.
“Cần
nhân nhanh kết quả nghiên cứu của chương trình, đặc biệt việc triển khai dự án
ứng dụng công nghệ cần có sự tham gia của các doanh nghiệp để đáp ứng được nhu
cầu về ứng dụng và chuyển giao công nghệ của địa phương và đảm bảo tính khả thi
về huy động kinh phí cho các dự án này” - Thứ trưởng Trần Quốc Khánh nói và lưu
ý, các nhiệm vụ KH&CN phải xuất phát từ nhu cầu thực tế nhằm giải quyết các
vấn đề cấp thiết tại Tây Nguyên như phát triển nguồn nước và lưu giữ nước vào
mùa khô, hoàn thiện cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện canh tác,
công nghệ chế biến sâu các sản phẩm chủ lực…
Sau
5 năm thực hiện, chương trình Tây Nguyên 3 đã có 334 công bố khoa học trong
nước, 63 công bố trên tạp chí, hội nghị, hội thảo quốc tế. Chương trình có 62
đề tài và 5 nhiệm vụ độc lập, trong đó 31 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học tự
nhiên và phòng tránh thiên tai (chiếm 50%); 21 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học
- xã hội và an ninh quốc phòng (chiếm 34%); 11 đề tài thuộc lĩnh vực KH&CN
(chiếm 16%).
|